Phiên tòa rút kinh nghiệm là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện chương trình công tác năm 2025. Vì vậy, ngay từ đầu năm Ban lãnh đạo Viện kiểm sát đã luôn quan tâm chỉ đạo và ráo riết đôn đốc các Kiểm sát viên kịp thời lựa chọn và đăng ký việc tổ chức các phiên tòa. Trên tinh thần đó các Kiểm sát viên của khâu kiểm sát án dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành cũng đã tiến hành được 05 phiên tòa rút kinh nghiệm, trong đó đã phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Long Thành tổ chức được 01 phiên tòa lao động sơ thẩm rút kinh nghiệm cụ thể như sau:

Toàn cảnh phiên tòa
Toàn cảnh phiên tòa
Vụ án “Tranh chấp tiền lương”, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông R
- Bị đơn: Trường Đại học F.
Nội dung vụ án:
Ngày 06/5/2023, Trường đại học F và ông R có ký hợp đồng với nội dung ông R làm công việc giảng dạy, nghiên cứu phục vụ cho giảng dạy và chấm điểm, đưa điểm lên hệ thống, thời gian làm việc chia làm 3 đợt:
Đợt 1 từ ngày 08/5/2023 đến ngày 07/6/2023;
Đợt 2 từ ngày 08/6/2023 đến 07/7/2023;
Đợt 3 từ ngày 08/7/2023 đến ngày 07/8/2023.
Tuy nhiên vào lúc 08 giờ 33 phút ngày 14/7/2023 – khi chưa thực hiện xong hợp đồng như thỏa thuận, ông R đã gửi mail cho ông H – Đại diện trường F với nội dung “từ chức” đối với công việc như đã ký kết tại hợp đồng ngày 06/5/2023 lý do nhà trường thanh toán lương không đúng ngày ghi trong hợp đồng.
Vào lúc 11 giờ 18 phút ngày 14/7/2023 ông H - Đại diện cho trường F đã gửi thư chấp thuận đề nghị đơn từ chức của ông R.
Lúc 15 giờ 07 ngày 01/8/2023 ông N – Nhận ủy quyền từ ông H đã gửi mail cho ông R để thông báo kết thúc hợp đồng và đề nghị thanh toán số tiền 65.550.000 đồng (trong đó: 15.550.000 đồng cho thời gian ông R làm việc từ ngày 08-14/7/2023; 3.500.000 đồng cho các hoạt động ngoài giảng dạy và 46. 500.000 như là thiện chí từ nhà trường để chấm dứt hợp đồng), tuy nhiên ông R không đồng ý với đề nghị của đại diện trường F nên khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết và yêu cầu thanh toán số tiền 127.750.000 đồng.
Theo ông R ngày 16/3/2023, ông có ký hợp đồng lao động với Trường đại học F để làm công việc giảng dạy và nghiên cứu, bắt đầu từ tháng 4/2023 ông soạn giáo án và tài liệu, tuy nhiên đây là bản “Đề nghị ký hợp đồng” với thời gian thực hiện công việc là 02 năm kể từ ngày 01/4/2023 – 31/03/2025 có chữ ký của các bên thể hiện các bên trao đổi thông tin để đi đến ký hợp đồng vào ngày 06/5/2023.
Tài liệu do các bên cung cấp đều thừa nhận ngày 06/5/2025 cả hai bên ký hợp đồng thực hiện công việc trong thời gian 03 tháng từ ngày 08/5 đến ngày 07/8/2023. Đây là bản hợp đồng được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, không ai bị ép buộc và không vi phạm pháp luật.
Qua lời khai đại diện trường F cũng như ông R thì ông R thực hiện công việc tại trường kể từ ngày 08/5/2023 đến 14/7/2023; Với thời gian thực hiện này trường đã thanh toán tiền từ ngày 08/5/2023 đến ngày hết 07/7/2023 với số tiền 124.400.000 đồng; Số thời gian 07 ngày còn lại trường vẫn chưa thanh toán, tính trên cơ sở mức lương đã ký kết thì số tiền cần phải thanh toán là 15.550.000 đồng.
Từ những căn cứ trên việc ông ông R khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc trường đại học F thanh toán tiền lương tháng 4 khi chưa ký kết hợp đồng là không có căn cứ để chấp nhận.
Đối với yêu cầu thanh toán tiền 65.550.000 đồng (trong đó: 15.550.000 đồng từ ngày 08-14/7/2023 làm việc tháng 7; 3.500.000 đồng cho các hoạt động ngoài giảng dạy và 46. 500.000 như là thiện chí từ nhà trường để chấm dứt hợp đồng). Xét thấy: Có cơ sở chấp nhận khoản tiền 07 ngày làm việc kể từ ngày 08-14/7/2023 và 3.500.000 do phía nhà trường thừa nhận ông R có tham gia một số hoạt động ngoài giảng dạy. Đối với số tiền 46.500.000 là thiện chí từ nhà trường để chấm dứt hợp đồng, tuy nhiên đến hiện nay nhà trường không còn đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên:
Áp dụng Điều 13; 48; 90; 94; 95; 96; 97 Luật Lao động 2019 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc trường đại học F phải thanh toán cho ông R số tiền 19.050.000 đồng. (gồm 15.550.000 đồng cho 7 ngày làm việc tháng 7; 3.500.000 đồng cho các hoạt động ngoài giảng dạy).

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử tại phiên tòa
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử tại phiên tòa
HĐXX vào nghị án và tuyên án thống nhất như đề nghị của Viện kiểm sát.
Sau khi phiên tòa lao động rút kinh nghiệm kết thúc, bộ phận dân sự đã tiến hành họp rút kinh nghiệm để chỉ ra những ưu, nhược điểm của Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát xét xử tại phiên tòa. Từ trước đến nay chủ yếu các phiên tòa rút kinh nghiệm của khâu công tác kiểm sát án dân sự phần lớn đều chọn các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Rất ít các vụ án lao động hay kinh doanh thương mại được chọn để tổ chức làm phiên tòa rút kinh nghiệm bởi vì số lượng án lao động, kinh doanh thương mại không nhiều so với án dân sự, hôn nhân gia đình. Tuy nhiên không phải vì vậy mà các phiên tòa lao động hay kinh doanh thương mại không có vấn đề cần rút kinh nghiệm, ngược lại loại án lao động này có những đặc thù riêng cần phải chú ý như phải có Hội thẩm đặc biệt, khi xét xử ngoài việc căn cứ vào các quy định của pháp luật, người tiến hành xét xử cũng cần quan tâm hơn đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên trực tiếp được phân công kiểm sát giải quyết vụ án lao động nêu trên đã thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của người kiểm sát. Đã lập bản trích cứu, báo cáo án, dự thảo đề cương hỏi, dự thảo bản phát biểu để kịp thời báo cáo với lãnh đạo đơn vị. Dự kiến được các tình huống có thể phát sinh để nắm thế chủ động tại phiên tòa. Chính vì khâu chuẩn bị được thực hiện đầy đủ, đúng quy định nên Kiểm sát viên đã hoàn thành tốt vai trò của người kiểm sát tại phiên tòa lao động nêu trên.
Trần Thị Nhung - VKSND huyện Long Thành