Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, kỷ cương, trách nhiệm; bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền biên giới; huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phát triển tỉnh Đồng Nai xanh, giàu mạnh, văn minh, hiện đại
“Giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiến nghị, kháng nghị trong kiểm sát các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và những việc khác theo quy định của pháp luật”

          Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 10/10/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2026, với phương châm: “Đoàn kết, đổi mới – Bản lĩnh, kỷ cương – Chuyên nghiệp, hiện đại”, yêu cầu toàn ngành kiểm sát tập trung thực hiện tốt chức năng nhệm vụ của ngành, đạt và vượt các chỉ tiêu công tác của Quốc Hội giao.
          Thực hiện Hướng dẫn số 28/HD-VKSTC ngày 24/10/2025 của Vụ 10 - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và các việc khác theo quy định của pháp luật năm 2026; Nghị quyết của Đảng ủy và Kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai về nhiệm vụ công tác kiểm sát năm 2026.
          Phòng 10, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xây dựng Chương trình công tác năm 2026 của phòng và Hướng dẫn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và các việc khác theo quy định của pháp luật năm 2026 đối với Viện kiểm sát khu vực. Xác định nhiệm vụ trọng tâm đột phá của công tác công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và các việc khác theo quy định của pháp luật là kịp thời phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị. Nâng cao chất lượng kháng nghị, giảm tỷ lệ án hủy, sửa có trách nhiệm của Viện kiểm sát. Thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác, tạo chuyển biến tích cực, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch được giao; tăng cường kỷ luật kỷ cương trong thực thi nhiệm vụ; đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý chỉ đạo điều hành, công tác chuyên môn nghiệp vụ.
          Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của ngành và đơn vị về phân công bố trí sắp xếp đào tạo cán bộ trong lĩnh vực công tác kiểm sát án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động. Xây dựng phẩm chất cán bộ“Tận tâm, tinh thông, thực chất, thuyết phục”.
          Quán triệt và triển khai thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, sửa đổi bổ sung năm 2025; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2025; luật tố tụng hành chính năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2025; Chỉ thị số 01/VKSTC ngày 10/10/2025; Chỉ thị số 07/VKSTC ngày 06/8/2021; Chỉ thị số 05/VKSTC ngày 18/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao; Hướng dẫn số 28/HD-VKSTC ngày 24/10/2025 của Vụ 10 - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao 2. Kết quả công tác kiểm sát thụ lý, giải quyết các vụ án Hành chính, vụ việc kinh doanh thương mai, lao động, phá sản và những việc khác theo quy định của pháp luật.
          Năm 2025, tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính, kinh doanh thương mại, lao động có diễn biến phức tạp và tăng so với năm 2024:
          Theo số liệu thống kê (từ 01/12/2024 đến 30/9/2025), Viện kiểm sát hai cấp đã thụ lý kiểm sát thụ lý 3.602 vụ, việc (tỉnh: 602, KV: 3.000) án hành chính, kinh doanh thương mai, lao động phá sản và các việc khác theo quy định của pháp luật; Đã giải quyết 3135 vụ (tỉnh: 487, KV: 2648). Còn lại chưa giải quyết 467 vụ (tỉnh: 115, KV: 342)
          Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, số lượng kiến nghị, kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát đối với các bản án, quyết định chưa nhiều. Nhiều kháng nghị chưa thực sự trở thành khuôn mẫu cho công tác kiểm sát giải quyết án hành chính, kinh doanh thương mai, lao động cũng như việc xác định vi phạm trong việc áp dụng pháp luật của Toà án. Nguyên nhân một phần do các quy định của pháp luật còn bất cập. Song, chủ yếu do tinh thần trách nhiệm, trình độ năng lực pháp luật và kỹ năng phát hiện vi phạm của CB.KSV còn chưa cao; sự phối kết hợp giữa phòng nghiệp vụ Viện tỉnh và Viện kiểm sát cấp huyện trong công tác kháng nghị phúc thẩm chưa chặt chẽ; số bản án, quyết định sơ thẩm gửi cho cấp phúc thẩm chưa đầy đủ, kịp thời.
          Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy:
          - Chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát nói chung, công tác kiến nghị, kháng nghị nói riêng ảnh hưởng lớn từ công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát hai cấp.
          - Cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát trong lĩnh vực này cần phải có được những nhận thức đúng về các chủ trương, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp, những quy định của pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân thì việc vận dụng vào công tác kiểm sát mới đạt chất lượng và hiệu quả cao.
          - Công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp về xác định quan hệ tranh chấp, đối tượng khởi kiện, việc xác minh thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, xác định thời hiệu khởi kiện vv…; việc áp dụng pháp luật thường là cùng một lúc phải áp dụng nhiều luật và nhiều văn bản quy phạm pháp luật; vì vậy phải chú trọng quan tâm hơn nữa đến việc bố trí, sắp xếp CB.KSV làm công tác này vừa ổn định, vừa có tính kế thừa, đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác này đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
          - Lãnh đạo Viện và phòng nghiệp vụ phải sâu sát kiểm tra, hướng dẫn và trả lời thỉnh thị, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
          - Tranh thủ sự quan tâm, lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự phối hợp của chính quyền địa phương để hoạt động công tác kiểm sát đạt hiệu quả.
          - Về công tác nghiệp vụ thì ngay sau khi nhận được thông báo thụ lý, Lãnh đạo Viện và Phòng nghiệp vụ phải phân công CB.KSV vào sổ thụ lý theo dõi, lập phiếu kiểm sát, Kiểm sát viên phải kiểm sát hồ sơ và nghiên cứu, tổng hợp, tích luỹ vi phạm, nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm, nhận diện các dạng vi phạm về nội dung và hình thức trong các bản án, quyết định.
          - Tăng cường phối hợp với Toà án cùng cấp trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi ngành trong các hoạt động tố tụng. Khi phát hiện vi phạm nên trao đổi để có biện pháp khắc phục, trong trường hợp giữ nguyên quan điểm thì ban hành văn bản kháng nghị, kiến nghị. Đối với những vụ, việc phức tạp, khó khăn về đường lối giải quyết thì báo cáo thỉnh thị xin ý kiến cấp trên.
          - Viện kiểm sát khu vực và Phòng nghiệp vụ phải mở sổ ghi chép, theo dõi tình hình vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng để tổng hợp vi phạm. Kiến nghị phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, cụ thể. Đồng thời phải tổng hợp những thiếu sót sơ hở trong công tác quản lý nhà nước (nếu có) để ban hành kiến nghị phòng ngừa vi phạm, khôi phục trật tự pháp luật bị vi phạm.
         Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiến nghị, kháng nghị trong kiểm sát các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mai, lao động …cần phải thực hiện tốt những giải pháp sau:
          Một là, nhận thức đúng và đầy đủ vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác kiến nghị, kháng nghị là nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Mặt khác, cần phải nắm vững thẩm quyền của Viện kiểm sát về công tác kháng nghị. Cần phải hiểu tính độc lập về quyền kháng nghị của Viện kiểm sát và quyền kháng cáo của đương sự trong Luật TTHC, Bộ luật TTDS. Mặc dù kháng cáo, kháng nghị đều làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm nhưng không lệ thuộc vào nhau. Viện kiểm sát kháng nghị nhằm bảo vệ tính đúng đắn của pháp luật, quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, mang tính khách quan của cơ quan bảo vệ pháp luật, còn quyền kháng cáo của đương sự là vì lợi ích của người kháng cáo.
          Hai là, thực hiện tốt công tác kiểm sát bản án, quyết định của Toà án trên cơ sở nắm chắc quy định pháp luật về tố tụng và nội dung cũng như các dạng vi phạm làm căn cứ kháng nghị theo thẩm quyền. Việc phát hiện vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm phải chính xác, kịp thời. Do vậy, Viện kiểm sát 2 cấp cần phải coi công tác kiến nghị, kháng nghị là tiêu chí hàng đầu để đánh giá kết quả hoạt động của công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, kinh doanh thương mai, lao động.
          Ba là, đảm bảo tính bí mật trong nghiệp vụ trước khi thực hiện việckiến nghị, kháng nghị, tránh tình trạng kéo dài thời gian mục đích để vô hiệu hoá kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát. Để thực hiện được yêu cầu này, Viện kiểm sát cần phải xây dựng được mối quan hệ phối hợp với Toà án để thực hiện tốt việc chuyển bản án, quyết định, hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đúng thời hạn theo quy định, bảo đảm cho mọi vi phạm đều được phát hiện và kiên quyết xử lý kịp thời. Ngoài ra, qua công tác kiểm sát phát hiện bản án, quyết định có vi phạm cần đóng dấu công văn đến và lưu giữ bản án, quyết định của Toà án gửi làm căn cứ kiến nghị, kháng nghị, tránh tình trạng Toà án lạm dụng Điều 197 Luật TTHC, Điều 486 Bộ luật TTDS để đính chính, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định.
          Ngoài việc kiểm sát các bản án, quyết định cần phải thông qua nhiều nguồn thông tin khác nhau để phát hiện vi phạm của bản án, quyết định như: Kiểm sát viên tham gia phiên toà; qua đơn khiếu nại của đương sự; đơn kiến nghị của cơ quan, tổ chức khác; qua các phương tiện thông tin đại chúng. Khi nhận được thông tin về những vi phạm của bản án, quyết định qua các nguồn trên, Viện kiểm sát phải thực hiện thẩm quyền được quy định trong Luật TTHC, Bộ luật TTDS để yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm.
          Bốn là, để ban hành được văn bản kháng nghị, kiến nghị đạt chất lượng cả về hình thức và nội dung, có tính thuyết phục cao, được Tòa án chấp nhận, ngoài kinh nghiệm, kỹ năng phát hiện và tổng hợp vi phạm thì phải nêu được quan điểm của Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng nào? (sửa án hay hủy án). Chỉ nên tập trung kháng nghị những bản án, quyết định có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nội dung vụ, việc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những bản án, quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của đương sự, nếu có kháng nghị cũng không làm thay đổi nội dung vụ, việc thì không cần thiết phải kháng nghị, mà chỉ cần tổng hợp vi phạm để kiến nghị với Tòa án.
         Khi xây dựng quyết định kháng nghị, cần phải cô đọng, đầy đủ, xúc tích. Lập luận phải vững chắc và việc viện dẫn căn cứ pháp luật phải chính xác, tránh tình trạng viện dẫn các căn cứ pháp luật không chính xác hoặc đã hết hiệu lực pháp luật. Kháng nghị phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Nêu được những vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hoặc có sai lầm nghiêm trọng của Toà án trong việc áp dụng pháp luật nội dung. Kháng nghị phải thực hiện theo đúng mẫu quy định. Nội dung kháng nghị phải phản ánh được nội dung vụ án, phân tích, làm rõ căn cứ kháng nghị đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; quyết định của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.
         Năm là, Viện kiểm sát phải mở sổ theo dõi phát hiện vi phạm và lập phiếu kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm. Phiếu kiểm sát do Kiểm sát viên tham gia xét xử sơ thẩm hoặc do lãnh đạo phân công lập, trong đó nêu rõ ý kiến đề xuất của Kiểm sát viên; ý kiến của lãnh đạo đơn vị. Trong hời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày nhận được bản án trong trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà.
        Với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, đội ngũ cán bộ công chức được củng cố, kiện toàn, trong đó có nhiều nhân tố tích cực, năm 2026 chắc chắn phòng 10, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành công trong công tác công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động, phá sản và các việc khác theo quy định của pháp luật nói chung và nâng cao chất lượng công tác kiến nghị, kháng nghị, giảm tỷ lệ án hủy, sửa có trách nhiệm của Viện kiểm sát./.
Nguyễn Viết Hạnh-Trưởng phòng 10

Các tin khác

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

Chịu trách nhiệm nội dung: Đồng chí Ngô Hữu Nghĩa - Phó Viện trưởng VKSND tỉnh

Địa chỉ: Số 1/6K đường Nguyễn Ái Quốc, phường Trấn Biên, tỉnh Đồng Nai (Trụ sở chính)

Số 412 đường Huỳnh Văn Nghệ, phường Trấn Biên, tỉnh Đồng Nai (Cơ sở 2)

Điện thoại: 0251.8820.275 - Fax: 02513.825376​ - Email: tk_dongnai@vks.gov.vn